Việt Nam ngưng chạy theo số lượng để tập trung nâng cao chất lượng lúa gạo

Đề án “Tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo Việt Nam đến năm 2025 và 2030” vừa chính thức được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt thực hiện. Trong đó, nhấn mạnh đến việc giảm diện tích sản xuất lúa cũng như khối lượng gạo xuất khẩu để tập trung cho […]

Đề án “Tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo Việt Nam đến năm 2025 và 2030” vừa chính thức được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt thực hiện. Trong đó, nhấn mạnh đến việc giảm diện tích sản xuất lúa cũng như khối lượng gạo xuất khẩu để tập trung cho chất lượng.

Vận chuyển gạo lên xe đi tiêu thụ tại chợ đầu mối lương thực Bà Đắc, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Ảnh: Trung Chánh

Quyết định phê duyệt đề án “Tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo Việt Nam đến năm 2025 và 2030” vừa được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành kèm theo đề án này và chính thức có hiệu lực từ ngày 26-1-2021 vừa qua.

Theo đó, đề án sẽ tiếp tục cơ cấu lại ngành lúa gạo theo hướng nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững với các mục tiêu: (i) đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, làm nòng cốt cho đảm bảo an ninh lương thực quốc gia (ii) nâng cao chất lượng, giá trị dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (iii) hình thành và nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị lúa gạo (iv) thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu (v) sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái (vi) nâng cao thu nhập của nông dân và lợi ích cho người tiêu dùng (vii) xuất khẩu gạo chất lượng cao và giá trị cao.

Chỉ tiêu đến năm 2025 của đề án là giữ diện tích lúa ở mức 3,6-3,7 triệu héc ta, tương đương diện tích gieo trồng là 7-7,2 triệu héc ta/năm, với sản lượng lúa đạt 40-41 triệu tấn.

Chỉ tiêu xuất khẩu đạt gạo 5 triệu tấn, trong đó, gạo thơm, đặc sản và japonica chiếm 40%, nếp 20%, gạo trắng phẩm chất cao 20%, gạo cấp trung bình và thấp 15% và sản phâm chế biến từ gạo là 5%; tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu trên 20%.

Trong khi đó, chỉ tiêu đến năm 2030, giữ diện tích đất lúa là 3,5 triệu héc ta (tức giảm 100.000-200.000 héc ta so với chỉ tiêu đến năm 2025), tương đương diện tích gieo trồng khoảng trên dưới 7 triệu héc ta/năm, linh hoạt diện tích gieo trồng, đảm bảo sản lượng tối thiểu là 35 triệu tấn lúa/năm.

Chỉ tiêu xuất khẩu gạo đạt 4 triệu tấn (tức giảm 1 triệu tấn so với chỉ tiêu đến năm 2025), trong đó, gạo thơm, đặc sản và japonica chiếm 45%, nếp 20%, gạo trắng phẩm cấp cao 15%, gạo phẩm cấp trung bình và thấp 10%, sản phẩm chế biến từ gạo 10%; tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu 40%.

Về giải pháp tái cơ cấu ngành lúa gạo, đối với sản xuất lúa, sẽ thực hiện chuyển đổi đất lúa ở nơi sản xuất hiệu quả thấp, thường xuyên bị ảnh hưởng mặn, hạn, ngập úng sang các mục đích nông nghiệp khác có hiệu quả cao; hạn chế chuyển đổi đất lúa có độ phì, năng suất cao, có hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh; chấm dứt tình trạng bỏ hoang đất lúa.

Định hướng cho sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long là thích ứng với biến đổi khí hậu; nâng cao giá trị và hiệu quả thông qua nâng cao chất lượng lúa gạo; mở rộng liên kết sản xuất – tiêu thụ; chuyển đổi đất lúa hiệu quả thấp sang cây trồng khác hoặc nuôi trồng thủy sản và tăng diện tích lúa luân canh với thủy sản (lúa – tôm, lúa – cá) hoặc rau màu.

Đối với vùng Đồng bằng Sông Hồng, định hướng là sản xuất lúa chất lượng cao theo thị hiếu tiêu dùng của vùng, trong đó, quy hoạch các vùng sản xuất lúa đặc sản địa phương, lúa nếp, japonica; tăng ứng dụng cơ giới hóa, công nghệ cao.

Với vùng Đồng bằng ven biển Bắc Trung bộ – Nam Trung bộ, thì ổn định sản xuất lúa 2 vụ ở các vùng chủ động được nguồn nước tưới và chuyển đổi diện tích lúa ở các nơi khó khăn về nguồn nước, sản xuất bấp bênh sang cây trồng khác; hạn chế sản xuất lúa ở vùng bị ảnh hưởng của thiên tai, thời tiết cực đoan gia tăng…

Còn về định hướng phát triển thị trường, đề án cho rằng, xu hướng chung trong tiêu thụ gạo nội địa là nhu cầu các loại gạo đặc sản, gạo thơm, chất lượng cao và gạo hữu cơ cũng như nhu cầu gạo cho chế biến gia tăng. Vì vậy, các vùng sản xuất cho tiêu thụ nội địa cần có cơ cấu giống phù hợp, trong đó, ngoài các giống chủ lực cần khai thác các giống đặc sản địa phương gắn với chỉ dẫn địa lý.

Với thị trường xuất khẩu, tiếp tục thực hiện chiến lược xuất khẩu gạo Việt Nam  giai đoạn 2017-2020 và tầm nhìn đến 2030; tăng cường chọn tạo và phát triển giống lúa đáp ứng cơ cấu chủng loại gạo theo chiến lược xuất khẩu, trong đó, cần ưu tiên cho giống lúa thơm, đặc sản.

Phát triển các vùng sản xuất tập trung theo giống được xác định có sự liên kết sản xuất – tiêu thụ, xuất khẩu; kiểm soát chặt chẽ quy trình sản xuất để sản phẩm có chất lượng đồng nhất và đảm bảo các chỉ tiêu vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó, đáp ứng tuyệt đối qui định mức dư lượng tối đa cho phép của thuốc bảo vệ thưc vật (MRL), truy xuất được nguồn gốc; ứng dụng công nghệ sau thu hoạch, bảo quản và chế biến tiên tiến để giảm thất thoát và đảm bảo chất lượng, hương vị gạo.

Trung Chánh (thesaigontimes)